krone
VIP Members
-
26/07/2016
-
141
-
259 bài viết
Các thuật toán đồng thuận blockchain hiện nay và nguy cơ bị tấn công - P2
Delegated Proof-of-Stake (DPoS)
DPoS là một dạng rất khác so với PoS. Ở đây, người sở hữu các token không làm việc dựa vào tính hợp lệ của các block, tuy nhiên họ lại chọn ra một “người” đại diện để xác nhận cho họ.
Trong hệ thống DPoS, thông thường có khoảng từ 21-100 “người” đại diện được lựa chọn.
Hiện tại, những “người” đại diện được thay đổi định kỳ và thường được chỉ định một transaction để phân phối các block. Không giống như trong các thuật toán PoW, PoS, đối với DPoS, các miner có thể hợp tác để phát triển các block. Với sự hợp tác của các miner cộng thêm process tập trung một phần, trên lý thuyết DPoS có thể xử lý số lượng transaction có cường độ nhanh hơn nhiều so với các thuật toán đồng thuận khác.
Byzantine Fault Tolerance (BFT)
BFT xuất phát từ một giải pháp cho “Byzantine generals’ problem,” một vấn đề logic khá nan giải mà các nhà nghiên cứu Leslie Lamport, Robert Shostak và Marshall Pease đã giải thích trong một bài nghiên cứu khoa học. BFT là cơ sở logic được sử dụng để khắc phục sự cố có một node giả mạo hoặc không đáng tin cậy. Nếu bất kỳ thành viên nào trong mạng gửi thông tin không nhất quán cho người khác về một giao dịch (transaction), độ tin cậy của mạng blockchain sẽ bị phá vỡ và gần như sẽ không có một cơ quan trung ương nào có thể sửa chữa độ sai lệch của mạng. Để giải quyết điều này, PoW đã cung cấp giải pháp BFT thông qua khả năng xử lý của mạng. Các node sẽ thường xuyên bỏ phiếu để xác định giao dịch thực sự được xảy ra.
Hyperledger hỗ trợ 2 thuật toán đồng thuận đó là PBFT và SIEVE, các thuật toán này đã sẵn sàng để xử lý các chaincode không xác định. PBFT là giải pháp đầu tiên để đạt được sự đồng thuận trong trường hợp thất bại của Byzantine. Mạng Stellar, RIPPLE đều sử dụng phương thức PBFT. Trong cơ chế PBFT, mỗi “general” quản lý một trạng thái nội bộ chính là trạng thái thông tin đang diễn ra. Sau khi nhận được một message, một “general” sử dụng message trong kết nối liên quan đến trạng thái rồi bắt đầu tính toán. Qúa trình tính toán này đòi hỏi ý kiến từng cá nhân về ý nghĩa của message. Sau khi đi đến kết luận cuối cùng, general sẽ chia sẻ quyết định với các “general” khác trong hệ thống. Một quyết định đồng thuận được đưa ra dựa trên tổng số quyết định được gửi bởi các “general” khác trong hệ thống.
Cơ chế đồng thuận SIEVE đang được mạng HyperLedger Fabric sử dụng, cho phép mạng phát hiện và loại bỏ các yêu cầu không xác định, đồng thời cũng đạt được sự đồng thuận về đầu ra của các giao dịch được đề xuất trước đó.
Summary
Các thuật toán đồng thuận được sử dụng bởi các nền tảng blockchain khác nhau, chủ yếu được điều khiển bởi loại ứng dụng mà nền tảng dự kiến sẽ cung cấp và những mối đe doạ mà nền tảng đó quan niệm về tính toàn vẹn của chuỗi.
Các mạng blockchain đang ưu tiên chọn một mô hình với throughput thấp hơn nhưng khả năng mở rộng cao hơn, đảm bảo xử lý các giao dịch nhanh hơn. Tại thời điểm mấu chốt lựa chọn mô hình đồng thuận phù hợp cho một mạng blockchain cụ thể, nhiều thứ khác nhau được xem xét như mô hình mạng dự kiến, mối quan hệ giữa những người tham gia, ngoài ra còn cả 2 khía cạch functional và non-functional.
Bài đã đăng:
Các thuật toán đồng thuận blockchain hiện nay và nguy cơ bị tấn công - P1
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành: